Độc đáo nuôi tôm bằng thảo dược có khả năng kháng khuẩn

Môi trường nước tự nhiên đang là vấn đề lớn trong ngành nuôi tôm, việc đảm bảo sức khỏe cho tôm trở thành nỗi lo cho người nuôi. Gần đây, một số nghiên cứu cho thấy chiết xuất thầu dầu, lưỡi rắn, mật gấu, chùm ngây, lược vàng, ô rô và sài đất có khả năng kháng lại hai chủng vi khuẩn Vibrio thường gây bệnh cho tôm nuôi

Các căn bệnh thường gặp trên tôm:

– Bệnh trắng (White Spot Syndrome Virus – WSSV): WSSV là một trong những bệnh dịch nghiêm trọng nhất đối với ngành nuôi tôm. Nó gây ra các triệu chứng như tôm có vết trắng trên cơ thể, mất sức kháng, và tỷ lệ tử vong cao.

– Bệnh tả (Early Mortality Syndrome – EMS): Bệnh EMS gây ra tỷ lệ tử vong cao ở tôm, đặc biệt ở giai đoạn tôm non. Bệnh này thường do vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây ra.

– Bệnh gù (Gill-associated Virus – GAV): Bệnh gù gây tổn thương lớn cho hệ thống mang của tôm, gây khó khăn trong việc hấp thụ oxy và gây ra hiện tượng gù cho tôm.

– Bệnh đỏ (Red Disease): Bệnh này gây ra các triệu chứng như đỏ lòe trên cơ thể tôm và tỷ lệ tử vong tăng lên. Nó thường được gây ra bởi nấm và vi khuẩn.

– Bệnh bạc nổi (White Feces Syndrome – WFS): Bệnh này gây ra tình trạng phân của tôm trở nên trắng, thường do nhiễm khuẩn hoặc tắc nghẽn tiêu hóa.

– Bệnh viêm sưng gan (Hepatopancreatic Microsporidiosis -HPM): Bệnh này gây viêm sưng gan ở tôm và có thể dẫn đến tỷ lệ tử vong cao.

Để ngăn ngừa và điều trị các bệnh dịch trên tôm, người nuôi tôm cần thực hiện các biện pháp quản lý bệnh dịch như:

Áp dụng hệ thống quản lý nuôi trồng tốt để duy trì môi trường nuôi tôm ổn định và sạch sẽ.

Kiểm tra tôm thường xuyên để phát hiện và xử lý nhanh chóng những triệu chứng ban đầu của bệnh.

Sử dụng các biện pháp phòng ngừa, như sử dụng thảo dược và thức ăn bổ sung có khả năng tăng cường sức kháng của tôm.

Thực hiện các biện pháp vệ sinh chặt chẽ và kiểm soát vi khuẩn trong hệ thống nuôi tôm.

Sử dụng thảo dược trong nuôi tôm

Thảo dược đóng vai trò là chất kích thích tăng trưởng, tăng cường miễn dịch, có hoạt tính kháng khuẩn và kháng nấm. Ngoài ra, thảo dược còn được nhận định có thể sử dụng thay thế cho kháng sinh dùng trong nuôi trồng thủy sản. Cao chiết thảo dược cũng được đánh giá hiệu quả trong ức chế tác nhân gây bệnh trên tôm.

Cao chiết củ riềng (Alpinia galanga) được xác định có khả năng ức chế sự phát triển của V. parahaemolyticus (Chaweepack et al., 2015). Cao chiết có chứa 1′-acetoxyeugugenol acetate là thành phần có thể ức chế sự phát triển của một số vi khuẩn gram dương như Staphylococcus cerevisiae, S. epidermidis, S. aureus và Bacillus cereus (Oonmetta-aree et al., 2006). Nghiên cứu của Canillac và Mourey (2001) ghi nhận 8 loài Vibrio spp. nhạy cảm với cao chiết củ riềng, trong đó có V. harveyi. 

Khả năng diệt khuẩn của dịch chiết lá sim và dịch chiết hạt sim (Rhodomyrtus tomentosa) đối với các chủng vi khuẩn gây bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (V. parahaemolyticus) cũng được xác định là hiệu quả trong điều kiện phòng thí nghiệm. Trong đó, dịch chiết hạt sim thể hiện hoạt tính kháng vi khuẩn gây AHPND cao hơn so với dịch chiết lá sim (Đặng Thị Lụa và ctv., 2015).

Hoạt tính kháng virus của cao chiết cỏ gà Cynodon dactylon đã được thử nghiệm trên trên tôm sú (Penaeus monodon). Kết quả nghiên cứu cho thấy thức bổ sung 2% cao chiết cỏ gà C. dactylon cho tỉ lệ sống 100% (Balasubramanian et al., 2008).

Rameshthangam và Ramasamy (2007) ghi nhận việc bổ sung bis (2-metylheptyl) phthalate được chiết xuất từ lá cây đậu dầu (Pongamia pinnata) đã làm tăng tỉ sống của tôm sú (Penaeus monodon) khi gây nhiễm WSSV, với mức bổ sung 200 và 300 µg cao chiết tương ứng với tỉ lệ sống 40% và 80%.

Chang et al. (2012) bổ sung chiết xuất từ gừng vào khẩu phần ăn của tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) trong 56 ngày cũng giúp kích thích tăng trưởng và tăng tỷ lệ sống của tôm. Nghiên cứu của Bhavan et al. (2014) cũng ghi nhận kết quả tương tự khi bổ sung cao chiết Syzygium cumini và Phylanthus emblica vào thức ăn ấu trùng tôm Macrobrachium malcolmsonii trong 45 ngày. Kết quả cho thấy hoạt tính enzyme tiêu hóa và tốc độ tăng trưởng của tôm được cải thiện đáng kể.

Hiện nay, việc sử dụng thảo dược trong phòng trị bệnh thủy sản đang được tập trung nghiên cứu và ứng dụng nhiều trong nuôi trồng thủy sản. Ngoài khả năng tăng cường miễn dịch, gia tăng sức đề kháng, và kháng lại mầm bệnh thì thảo dược còn có tác dụng kích thích sự tăng trưởng.

Khảo sát để chọn ra loại thảo dược thích hợp kháng lại vibiro

Nghiên cứu của Hồng Mộng Huyền và Võ Tấn Huy được tiến hành nhằm khảo sát hoạt tính kháng khuẩn của bảy loại thảo dược (thầu dầu, lưỡi rắn, mật gấu, chùm ngây, lược vàng, ô rô và sài đất) đối với vi khuẩn V. harveyi và V. parahaemolyticus gây bệnh trên tôm nuôi.

Nghiên cứu được thực hiện trên bảy loại thảo dược ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.

Phương pháp ly trích dịch chiết

Bảy loại cao chiết thảo dược được sử dụng để xác định hoạt tính kháng khuẩn với hai chủng vi khuẩn Vibrio spp gây bệnh trên tôm nuôi là V. harveyi và V. parahaemolyticus.

Kết quả

Các loại cao chiết thảo dược dùng trong nghiên cứu đều có khả năng ức chế sự phát triển của V. harveyi  V. parahaemolitycus. Cụ thể, cao chiết cây thầu dầu cho thấy khả năng kháng V. harveyi và V. parahaemolitycus rất tốt với đường kính vòng kháng khuẩn tương ứng là 18,0±1,4 mm và 17,5±0,7 mm. Nhóm cao chiết cây mật gấu, chùm ngây, ô rô, sài đất có khả năng kháng V. harveyi ở mức trung bình (đường kính vòng kháng khuẩn ≥ 10 mm). Tuy nhiên, đối với V. parahaemolitycus, nhóm cao chiết mật gấu, chùm ngây, ô rô, sài đất cho thấy hiệu quả thấp hơn (đường kính vòng kháng khuẩn ≥ 8,0 – 9,5 mm).

Từ kết quả xác định hoạt tính kháng khuẩn cho thấy cao chiết thầu dầu kháng tốt (nhạy) đối với 2 chủng vi khuẩn V. harveyi và V. parahaemolitycus gây bệnh trên tôm, do đó cao chiết thầu dầu sẽ được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung vào thức ăn cho tôm giúp tăng cường miễn dịch, kháng lại mầm bệnh giúp tôm tăng trưởng và phát triển tốt.

Thảo dược là một chế phẩm tự nhiên chúng có thể thay thế hoàn toàn các loại kháng sinh giúp phòng, trị bệnh trong nuôi trồng thủy sản. Sử dụng thảo dược cũng được đánh giá là tốn ít chi phí hơn trong quá trình điều trị và không gây độc. Đây là một hướng đi bền vững giúp bà con tạo ra nguồn thực phẩm sạch và an toàn.

Theo nghiên cứu của Hồng Mộng Huyền và cộng sự 2018 . Đăng trên Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 54, Số chuyên đề: Thủy sản (2018)(2): 143-150

Công nghệ để tạo thức ăn cho tôm từ nguyên liệu thảo dược

AGS FARM

Công nghệ để tạo thức ăn cho tôm từ nguyên liệu thảo …

Read moreCông nghệ để tạo thức ăn cho tôm từ nguyên liệu thảo dược

Công nghệ ngủ đông trong bảo quản tôm

AGS FARM

Công nghệ ngủ đông là một phương pháp quan trọng để bảo …

Read moreCông nghệ ngủ đông trong bảo quản tôm

Nuôi tôm siêu thâm canh

AGS FARM

Nuôi tôm siêu thâm canh (intensive aquaculture) là một mô hình nuôi …

Read moreNuôi tôm siêu thâm canh

Công nghệ để tạo thức ăn cho tôm từ nguyên liệu thảo dược

AGS FARM

Công nghệ để tạo thức ăn cho tôm từ nguyên liệu thảo …

Read moreCông nghệ để tạo thức ăn cho tôm từ nguyên liệu thảo dược

Công nghệ ngủ đông trong bảo quản tôm

AGS FARM

Công nghệ ngủ đông là một phương pháp quan trọng để bảo …

Read moreCông nghệ ngủ đông trong bảo quản tôm

Nuôi tôm siêu thâm canh

AGS FARM

Nuôi tôm siêu thâm canh (intensive aquaculture) là một mô hình nuôi …

Read moreNuôi tôm siêu thâm canh